Thảm kịch máy bay làm thay đổi ngành hàng không Mỹ
Khoảng 11h30 ngày 30/6/1956, hai máy bay TWA Super Constellation và United DC-7, chở 128 người, bất ngờ đâm nhau ở độ cao hơn 6.400 m trên khu vực Grand Canyon.
Vụ va chạm trên không đã xé toạc phần đuôi của chiếc Constellation cũng như cắt đứt phần lớn cánh trái của chiếc DC-7. Chiếc Constellation lao xuống gần như theo chiều thẳng đứng và rơi xuống Temple Butte, khu vực khá bằng phẳng nằm cách sông Colorado khoảng hơn 90 m. Chiếc United DC-7 bay loạng choạng thêm gần 2 km về phía bắc trước khi lao xuống đỉnh Chuar Butte và rơi xuống khe núi.
Vụ tai nạn của hai máy bay chở khách này đã thay đổi ngành hàng không Mỹ theo cách mà ngày nay vẫn có thể nhận thấy. Trước tai nạn ở Grand Canyon, các vụ va chạm trên không khá phổ biến. Bài báo của Aviation Week năm 1956 chỉ ra có 127 vụ va chạm trên không đã xảy ra ở Mỹ giữa năm 1948 và 1955, liên quan tới 30 hãng hàng không thương mại. So với ngày nay, vụ tai nạn lớn nhất của hàng không Mỹ đã cách đây hơn một thập kỷ.
Tuy nhiên, tốc độ tương đối thấp của các loại máy bay khi đó dẫn tới số người chết vì tai nạn khá thấp, chỉ có 226 người thiệt mạng trong 127 vụ. Nhiều người kiểm soát không lưu năm 1955 lo ngại rằng tốc độ cao của nhiều loại máy bay mới có thể dẫn tới nhiều người chết hơn và vụ va chạm ở Grand Canyon chứng minh điều họ lo sợ nhất đã đúng. Nó được xem là vụ tai nạn hàng không thảm khốc nhất của Mỹ cho tới thời điểm đó và đã làm thay đổi hoàn toàn các biện pháp an toàn bay ở Mỹ.
Sau khi cả hai máy bay mất tín hiệu vô tuyến, các nhân viên kiểm soát không lưu và nhân viên mặt đất của hai hãng hàng không đã mở cuộc tìm kiếm. Ngay trước lúc mặt trời lặn, sau khi nghe thông tin trên đài về máy bay mất tích, Palen Hudgin, phi công chuyến bay ngắm cảnh cùng anh trai đã quay trở lại nơi họ từng nhìn thấy khói trước đó cùng ngày. Họ có vẻ xác định được đuôi chiếc Constellation và sau khi hạ cánh đã gọi cho hãng TWA để thông báo phát hiện này.
Đầu buổi chiều hôm đó, trung úy Miles Burd, phi công của không quân Mỹ đang cắt cỏ ở nhà thì nhận được điện thoại triệu tập tới căn cứ không quân Luke ở bang Arizona. Burd cùng một phi công khác và nhân viên kỹ thuật đã lên chiếc trực thăng H-19 hướng về phía bắc, bay cùng chiếc H-19 thứ hai do trung úy Daryl Strong điều khiển. Họ đáp xuống bãi đậu xe của một khách sạn gần sông Little Colorado.
Rạng sáng hôm sau, Burd và Strong lên cùng một chiếc H-19, trong khi đại úy Jim Womack và trung úy Phil Prince điều khiển chiếc còn lại. Cùng lúc đó, phi hành đoàn của chiếc SA-16 Albatross từ căn cứ không quân Hamilton ở California đã có mặt và phát hiện vật thể được cho là xác chiếc United, nhưng không thể hạ cánh để xác nhận. Burd và Strong đã bay qua bay lại phía trên hẻm núi này và chuẩn bị chuyển hướng tới sân bay Grand Canyon để tiếp nhiên liệu thì Burd phát hiện tia sáng trên đỉnh Chuar Butte. Không tìm được vị trí thuận lợi để hạ cánh, Burd cố gắng tiến sát và chạm bánh trên đất để nhân viên kỹ thuật cố nhoài người với lấy mảnh vỡ.
Họ quay về và hạ cánh xuống làng Grand Canyon. Burd đã nói với phóng viên đang chờ họ rằng "chúng tôi đã tìm thấy mảnh vỡ để xác minh".
Các thành viên của không quân cùng 24 sĩ quan lục quân và sĩ quan cảnh sát đã được trao tặng huân chương tại Nhà Trắng.
Vụ tai nạn đã được đưa lên trang nhất của nhiều báo suốt nhiều ngày sau đó, khiến vấn đề an toàn hàng không trở thành mối quan tâm của dư luận. Một tuần sau vụ tai nạn, một phiên điều trần tại Quốc hội đã được tổ chức ở Las Vegas để tìm hiểu điều gì đã xảy ra. Các nhà điều tra xác định rằng hệ thống kiểm soát không lưu lạc hậu của Mỹ, chủ yếu dựa vào tín hiệu trực quan của phi công và ước lượng của nhân viên kiểm soát, là nguyên nhân chính.
Dựa trên kết quả cuộc điều tra, Quốc hội Mỹ năm 1957 thông qua việc thành lập Cục Hàng không Liên bang (FAA) và Ủy ban An toàn Giao thông quốc gia Mỹ. FAA đã nâng câp hệ thông kiểm soát không lưu cổ xưa của Mỹ. Bắt tay nhau, hai cơ quan liên bang đã biến hàng không thương mại trở thành hình thức giao thông vận tải an toàn nhất thế giới.